Gautama Buddha, đã bắt đầu cuộc sống trên Trái đất từ trong một Vương triều; để Ngài truyền giảng bài học đầu tiên: bài học Từ bỏ. Từ bỏ tất cả những phù hoa giả tạo: quyền lực, danh vọng, tiền của và sắc đẹp; thứ không thuộc về, thứ không phải là Bản thể Con người.
Ngài đã chọn cách trực quan nhất trong bài giảng đầu tiên. Không có gì, sao gọi là Từ bỏ. Phải là một người có tất cả, phải là một vị vua, với giang sơn giàu có và quyền lực trùm thiên hạ; thì việc Từ bỏ mới là rõ ràng. Từ bỏ vì đơn giản nó không phải là thứ Tìm kiếm.
Rồi, bằng sự nỗ lực, nỗ lực tìm kiếm Ánh sáng, tìm kiếm Chân lý; qua 6 năm trời gian khó, với tất cả quyết tâm, với lòng khát khao vô bờ bến, lên rừng, xuống biển, lang thang trên mọi nẻo đường,… nhưng không đạt được điều gì. Không thấy Ánh sáng, không thấy Chân lý. Gautama Buddha chỉ đạt được điều đã mong muốn khi ngồi xuống dưới gốc cây gìa, khi Từ bỏ Tìm kiếm, khi Từ bỏ tất cả những nỗ lực, khi Từ bỏ Tâm trí của mình, khi Từ bỏ tất cả; và Ngài đã Biết, Biết tất cả những điều cần Biết. Ngài Chứng ngộ.
Đó là bài học thứ hai: Nhận biết, một trong những bài học cơ bản, Gautama Buddha đã trao truyền. Thượng đế không ở đâu xa, ở ngay bên trong của mỗi con người. Ngài đã tự Chứng ngộ, bằng cách hướng vào trong; chứ không phải hướng ra ngoài, hướng vào những đâu đó, bên trên và bên ngoài. Ngài đã dạy về bài học Tự do tinh thần. Con người chỉ có thể tìm được hạnh phúc trường tồn, tìm được sự tĩnh lặng sâu thẳm, tìm được phúc lạc, tới được Nirvana, khi đi vào trong.
Tình yêu, Từ bi và nhiều bài học khác nữa, Gautama Buddha đã trao truyền cho Con người của Thời đại Song ngư một cách trực quan và biện chứng. Trực quan bằng chính trải nghiệm trong đời sống của Ngài. Biện chứng là cái Ngài đã sáng tạo. Biện chứng không phải Hegel sáng tạo ra.
Biện chứng, Bốn tầng phân biệt (catuskoti) là do Gautama Buddha sáng tạo; nó thuộc về Ngài. Giáo lý của Gautama Buddha đã luôn trao truyền bằng một ngôn ngữ đơn giản, cụ thể, khúc triết, logic, biện chứng; minh triết và tràn đầy năng lượng; nó cuốn hút con người, nó thúc đẩy, nó lôi kéo, nó dẫn dụ và nó chuyển hoá Con người. Đó là thứ ngôn ngữ Siêu việt.
Jesus Christ, khác và giống Gautama Buddha.
Jesus Christ, như một Ánh sao, ngài đã sa xuống không phải nơi Cung điện, mà sa xuống một máng cỏ tại Bethlehem. Cha Jesus Christ không phải là một vị Vua, Giuse là một người thợ mộc. Jesus Christ không chỉ đi khắp mọi nơi, tìm những bậc Trí giả, những bậc Thày trí huệ để cùng trao đổi, tranh luận và đàm đạo. Jesus Christ tìm đến những nơi tăm tối lầm than nhất của đời sống, ngõ chợ, xưởng nghề, bãi tha ma… nơi không thể có ánh sáng, nơi của khổ đau và tội lỗi. Ngài tìm những con người đau ốm bệnh tật, để chữa trị.
Ngài đến với những kẻ tội phạm, gái điếm, kẻ thu thuế để chia xẻ tình yêu thương và dạy con người cách ăn năn. Ngôn ngữ của Jesus Christ có thể không uyên bác, có thể không biện chứng; vì Ngài không thích lý thuyết, không thích giáo lý. Jesus Christ đến với Con người để kể những câu chuyện ngụ ngôn, đầy ẩn ý; bằng chính cuộc đời của Ngài, thấm đẫm nhân sinh.
Thông thuờng, có ba loại Huyền môn. Loại đầu tiên là huyền môn của trí óc. Những nhà huyền môn này, họ bàn về thần học, về triết học, về Thiên nhiên, về Bản thể;… họ có đủ mọi loại lập luận, nhiều phương pháp phân tích, các lý luận logic về Thượng đế, về Linh hồn. Thực sự, họ chẳng có bằng chứng nào cả, không thể có. Vì đơn giản họ đang bất toàn, và họ đang trong một Thực tại bất toàn, làm sao họ thấy đựơc cái Toàn hảo, cái Tuyệt đối.
Nhưng những Học giả này họ lại coi đó, coi những lập luận, coi những phương pháp luận của họ, tất cả đều là bằng chứng(!). Họ tự lừa mình, và họ lừa người khác. Loại thứ hai, những nhà huyền môn của con tim. Họ nói về tình yêu, về tình yêu cao cả. Họ dạy cho con người phải yêu thuơng nhau. Họ luôn nói rằng: họ luôn luôn yêu thuơng mọi người, nhiều và nhiều lắm.
Nhưng dường như, đó không phải cách của người đang yêu. Khi con người đang yêu, đang yêu thực sự, người đó không biết là họ đang yêu, người đó đơn giản là thấy hạnh phúc; hoặc người đó chỉ muốn hét lên rằng tôi đang sung sứơng quá. Người đang yêu, thực sự không thể biết là mình yêu nhiều, và càng không thể biết là mình đang yêu nhiều lắm. Cho nên, nếu những nhà huyền môn con tim này, họ có nói bằng ca nhạc, bằng thi ca; họ là những người lãng mạn; sự Tìm kiếm của họ sâu hơn loại trí óc, nhưng vẫn không là đủ, không đủ sâu. Không đủ để thấy Ánh sáng.
Hai ngàn năm qua, đệ tử của Jesus Christ thuộc hai loại này, đông đúc vô kể. Họ tạo thành một hệ thống lớn lao. Họ xây thành, họ đắp luỹ; những thành luỹ giáo điều kiên cố, đã từng vùi dập loài người trong những đêm đen dài Trung cổ. Loại trí óc, phải kể đến thánh Thomas Aquinas, với bộ Summa Theological đồ sộ hàng trăm tập.
Thật là vĩ đại, với rất nhiều triết lý, với rất nhiều tri thức, với rất nhiều lý lẽ, phương pháp phân tích và cũng rất nhiều giáo lý và quy tắc. Nhưng dường như, dường như không đúng với ý tứ của Jesus Christ, không đi tới các chiều sâu các ý tứ của Ngài. Và, vì những điều này mà Eckhart, thánh Francis và nhiều người khác đã từng bị coi là tà đạo là điên khùng; vì đơn giản, họ đã nói về con tim, về tình yêu. Con tim và trí óc luôn là không đồng nhất; nhưng trong Tôn giáo thì sự không đồng nhất này, nhiều khi đẩy lên thành mâu thuẫn, mâu thuẫn đối kháng. Thành quả của cả hai nhóm này là vậy: đối kháng, xung đột.
Jesus Christ không tạo ra, không muốn tạo ra hai người loại này. Ngài không phải trí óc, Ngài không phải con tim. Ngài siêu việt lên tất cả. Jesus Christ muốn Con người, đệ tử của Ngài là loại thứ ba, siêu việt qua con tim, siêu việt qua trí óc.
Jesus Christ không dạy về lý thuyết. Ngài cảm thông, Ngài chia xẻ. Và vượt lên tất cả, Jesus Christ mời gọi, mời gọi sự tiếp cận đến bản chất sâu thẳm nhất của con người. Ngài muốn Con người cần vất bỏ mọi định hướng, vứt bỏ tất cả cái bên ngoài, những lớp vỏ, những tấm chăn và tìm về cái cốt lõi bên trong, nơi mà chỉ một mình người đó hiện diện, nơi bản thể của Con người ngự trị. Nơi chỉ có Hiện sinh.
Jesus Christ mời gọi Con người trong Hiện sinh của Con người, trong sự trong trắng của Trẻ con. “Nếu các ông thành trẻ con, các ông sẽ tới đựơc Thiên đường”. Là trẻ con, vứt bỏ tất cả, Con người có thể đến được đó, mọi điều huyền bí sẽ mở, mọi cánh cửa sẽ mở toang và Chân lý sẽ hiển lộ. Đó là nơi triết học và thần học không hề bén bảng tới; đó là nơi thi ca không thể thơ thẩn thấp thoáng; đó là nơi cả logic và trái tim phải dừng bước.
Có vẻ là giản đơn; Chân lý bao giờ cũng đơn giản. Nhưng Con người vẫn có thể lạc đường ngay tại ngưỡng cửa của Thiên đường. Nếu nghiêng về trí óc, Con người sẽ ngưng tại ngưỡng cửa để mà lập lý thuyết, để mà xây dựng các phương pháp luận, để mà hình thành các thứ Chủ nghĩa, để mà tạo lập nên các Giáo lý. Hoặc Con người có thể dừng tại cửa mà thơ thẩn, thơ thẩn làm thơ, thơ thẩn ca hát và nói bất tận về tình yêu. Đó không phải là điều Jesus Christ mong muốn.
Jesus Christ đã trao truyền siêu việt, siêu việt qua ẩn dụ và ngụ ngôn. Cuộc đời Ngài cũng là một ẩn dụ, một ngụ ngôn siêu việt. Máu Jesus Christ đã chảy, chảy trên cây thánh giá rỏ xuống cuộc đời. Máu Jesus Christ đã chảy, còn đọng và thấm lại trên tấm vải niệm Torino; nó đậm dấu sâu sắc không thể nhạt phai theo thời gian. Jesus Christ đã trao truyền bằng thứ ngôn ngữ siêu việt: Hiện sinh của chính Ngài. Nhưng nó luôn là ngụ ngôn, luôn là ẩn dụ; nó có nhiều các tầng sâu trong những câu chuyện đó.
3
Ẩn dụ đầu tiên, ngụ ngôn đầu tiên, cần nhắc tới là Ba cám dỗ.
Quỷ, dường như đã từng là Thiên thần. Thiên thần thông minh, đẹp đẽ và thánh thiện. Vì lầm lỡ, phải chăng Thiên thần đã đánh rơi sự đẹp đẽ, đánh mất sự thánh thiện; và sự thông minh bị đánh tráo và khuyếch đại lên thành tinh ranh và độc ác.
Tinh ranh và độc ác, Quỷ đã xuất hiện chính xác, tại thời điểm sau 40 ngày Jesus Christ lang thang trong sa mạc, thời điểm mệt mỏi rã rời, thời điểm đói và khát cùng cực; để nói với Ngài rằng: hãy biến đá thành bánh mỳ. Đói – Bánh mì – Ăn. Không, không có cám dỗ nào đơn giản hơn mà thôi thúc khốc liệt hơn. Con người đã muôn đời lầm lẫn, đã nhiều kiếp Vô minh vì điều đơn giản này.
Không thở con người sẽ chết, không ăn con người sẽ chết. Biết Thở, Thở đúng cách Con người sẽ Nhận biết. Ăn và Thở, hai cấp độ khác nhau hoàn toàn. Ăn, cái cụ thể, giản đơn nhất trong các dục vọng bản năng. Vô minh, nhầm lẫn, thậm trí Con người đồng nhất Ăn và các dục vọng bản năng với Bản thể, với Tồn tại. Với Quỷ, đó là một Bí nhiệm. Bí nhiệm này, hoàn toàn chả có gì bí nhiệm. Nhưng tinh ranh và độc ác ở chỗ, Quỷ biết rất rõ mối quan hệ của Bí nhiệm này với Con người. Tinh ranh và độc ác, Quỷ rất lão luyện sử dụng, điều khiển, vận hành và sai khiến Bí nhiệm này với Con người; và hơn cả thế nữa!
Bí nhiệm không chỉ đối với Ăn, hành vi đơn giản nhất trong các dục vọng bản năng; Bí nhiệm không chỉ đối với những cám dỗ Sinh lý. Quỷ đã nâng nó lên, nâng Bí nhiệm này lên, vượt qua tầng Sinh lý, tới tầng Tâm lý, tới tầng Tâm linh, trong cám dỗ thứ hai và cám dỗ thứ ba. Đó là cám dỗ về Quyền lực, đó là cám dỗ về Phép lạ.
Bí nhiệm, Quyền uy và Phép lạ. Ba cám dỗ đời nhất, Người nhất, Quỷ nhất mà cũng Thần thánh nhất. Hai ngàn năm qua, ba thứ: Bí nhiệm, Quyền uy và Phép lạ luôn dụ dỗ, mời chào, lôi kéo, thôi thúc; khi lặng lẽ, khi âm thầm, khi ồn ào, khi khốc liệt; không chỉ với Quỷ, không chỉ với Người mà cả với Thần linh. Trái đất này nóng lên, cũng vì nó. Vũ trụ này quay nhanh hơn, cũng vì nó.
Quỷ tinh ranh và độc ác, rất lão luyện sử dụng, điều khiển, vận hành và sai khiến Bí nhiệm này với Con người, với Quỷ và với cả Thần linh. Con người ngu dốt, vô minh, nhầm lẫn Ba Cám dỗ: Bí nhiệm, Quyền uy và Phép lạ với Bản thể, với Tồn tại, với Hiện hữu. Thần linh, biết nó là không phải là Tồn tại, không phải là Hiện hữu, không phải là Thượng đế, không phải là Tuyệt đối; nhưng Quyền uy và Phép lạ hấp dẫn quá, nên nhiều khi nhiều lần cố tình quên.
Cố tình quên và cố tình làm cho Con người quên; dù có lăn tăn, dù có hối hận, dù có bù đắp đền bù. Quỷ không như vậy. Quỷ thuần khiết trong các hành vi tinh ranh và độc ác. Biết rằng lừa dối Con người, lừa dối Thần linh về Bí nhiệm, Quyền uy và Phép lạ; là lừa dối; Quỷ không lầm lẫn hay ngộ nhận; Quỷ không lăn tăn và hối hận; Quỷ say sưa và Quỷ tiến tới tận cùng của hành động.
Bí nhiệm, Phép lạ và Quyền uy không phải là Quỷ, không phải hiện thân của Quỷ; nó quyền năng hơn Quỷ rất nhiều. Nó có trong mỗi con người, nó có trong tất cả các thứ chủ nghĩa, nó có trong mọi quốc gia, nó có trong mọi dân tộc, nó có trong mọi triều đại và nó có trong mọi Tôn giáo.
Bí nhiệm, Phép lạ và Quyền uy, nó có trong mọi Tôn giáo. Nó là phản đề, của chính đề: Từ bỏ, Tình yêu và Nhận biết. Từ bỏ, Tình yêu và Nhận biết là ba chiều chính, ba vecter chính của một Tôn giáo chính thống; ba vecter dương tính. Khi một Tôn giáo suy thoái, thoái hoá, mạt thời, ba vecter chính chuyển chiều thành ba vecter âm tính. Tình yêu đựơc đánh tráo bằng Quyền uy, Phép lạ thay thế cho Từ bỏ, Bí nhiệm che mờ Nhận biết.
Ngay sau khi xuất hiện ở thế gian, ngay sau khi nhận phép Sám hối từ St. John the Baptist, Jesus Christ đã gặp Quỷ với Ba Cám dỗ. Jesus Christ đã gặp Quỷ trước tiên, gặp Quỷ để giải mã về ba vecter âm tính này. Với Ngài đó là điều cần thiết trước nhất; vì đó là điều lớn lao nhất với Con người, đối với Thần linh và đối với Quỷ. Ngài đã trao truyền ngay bài học đầu tiên, không phải chính đề, không phải phần dương tính.
Ngài không dạy ngay bài học: Từ bỏ, Tình yêu và Nhận biết. Không, Ngài chọn ngay phản đề, chọn ngay âm tính. Để quyết liệt, mạnh mẽ, dứt khoát, thẳng thừng từ chối. Ngài đã định nghĩa ngay Bóng đêm là gì, trước khi định nghĩa Ánh sáng. Từ chối thẳng thừng Bóng đêm, để mở đường đi tìm Ánh sáng. Đây là điều Minh triết lớn lao, là Con đường Siêu việt. Ngài đã trao truyền một Con đường: Tìm Ánh sáng từ Ánh sáng. Ánh sáng tới Bóng tối sẽ chạy chốn. Ngài không tìm Ánh sáng bằng cách xua đuổi Bóng tối.
Đó là trao truyền đầu tiên của Jesus Christ.
4
Để rồi các trao truyền sau đó, Jesus Christ nói nhiều về ba vecter chính, ba vecter dương tính: Từ bỏ, Tình yêu và Nhận biết.
“Ai tát má các ông bên này, thì đưa cả má bên kia.”
Không chỉ những người Thiên Chúa giáo biết câu nói này. Nhiều người biết câu nói này. Phần lớn nhân loại biết câu nói này; đó là lời dạy của Jesus Christ.
Nhưng ít ai hiểu hết các chiều của lời dạy này. Rất nhiều người đã bỏ lỡ sự sâu sắc của Jesus Christ, trong lời dạy đó. Tôi đã nghe, không dưới ba lần, của ba người khác nhau, họ là mục sư, họ là giám mục; họ đã giảng rằng, này các tín đồ hãy vì lòng Kính yêu Christ mà chìa má bên kia. Hãy vì lòng Kính yêu Christ, yêu thương cả kẻ thù của mình. Họ không sai. Nhưng, họ đã bỏ lỡ, bỏ lỡ sự sâu sắc của Jesus Christ, bỏ lỡ sự uyên bác và vị tha trong tư trưởng của ngài.
Lời dạy này, nằm trong The Gospel according to St. Matthew, như sau:
“Ta bảo các ông đang nghe đây: Đừng chống lại kẻ ác, đừng báo thù. Ai tát má các ông bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của các ông, thì cũng đừng cản nó lấy cả áo trong; ai bắt các ông đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì các ông hãy cho và ai lấy gì, thì đừng đòi lại. Các ông muốn người ta làm điều gì cho các ông, thì hãy làm cho người ta như vậy.”
Ngài đã dạy như vậy.
Tôi thấy rằng, trong lời dạy đó, có cả ba chiều của Tính Tôn giáo; ngoài Tình yêu nó hàm chứa lòng bao dung trong sự Từ bỏ; nó hàm chứa một tầm nhìn siêu việt của Nhận biết.
Nếu không có thái độ Từ bỏ mạnh mẽ; từ bỏ cảm xúc đau đớn của thân thể; từ bỏ ý nghĩ bị chiếm đoạt quyền sở hữu; từ bỏ cảm xúc mất mát; từ bỏ cảm xúc sỹ diện bị xúc phạm; từ bỏ cảm xúc danh dự bị trà đạp… với Tâm thức bao dung, làm sao mà có thể chìa má bên kia, làm sao có thể nếu ai lấy cái gì, thì đừng đòi lại…
Không, không có thái độ mạnh mẽ Từ bỏ những cái đó, thì phản ứng sẽ là khác, sự giận dữ, lòng căm hờn và rồi thân thể sẽ phản ứng, và rồi bạo hành sẽ tiếp diễn. Đó là lẽ bình thường của Tâm trí. Chìa má bên kia và đừng đòi lại, Jesus Christ đã dạy, đã yêu cầu các đệ từ của ngài, phải Từ bỏ; phải Từ bỏ cái bản ngã của mình; phải Từ bỏ những cái đã lầm lẫn đồng hoá: ý nghĩ, cảm xúc, hành động… Không đồng hoá Bản thể với những cái đó, thì Tình yêu sẽ tràn đầy. Vì đơn giản, năng lượng không hao tổn, không mất đi vì những thứ lầm lẫn đó. Khi Tình yêu tràn đầy, không phải Christ, mà bất kỳ ai, là kẻ thù cũng được ban tặng.
Trong những lời dạy của Ngài, tinh thần Từ bỏ còn nhắc lại ở nhiều lần khác. Trong The Gospel according to St. Matthew, một đoạn khác, Ngài dạy:
“Đúng vậy, ta nói cho các ông biết, trừ phi các ông biến cải và trở thành như trẻ con, không có cách nào các ông có thể vào Thiên đường.”
Trẻ con, trẻ con có gì đâu, ngoài sự trong trắng thuần khiết. Người lớn trở về trẻ con, là một hành trình vĩ đại; phải từ bỏ tất cả, nhưng giáo lý, những thói quen, những lề thói đạo đức xã hội, nhũng chuẩn mực ràng buộc; từ bỏ những suy nghĩ, từ bỏ những hệ tư tưởng, từ bỏ những cảm xúc; từ bỏ tất cả các tri thức đã thu nhận trong hành trình cả cuộc đời;… Từ bỏ tất cả, để về với sự trong trắng và thuần khiết; để về với trẻ con. Cùng với giao giảng về Tình yêu, Jesus Christ luôn giao giảng về Từ bỏ.
Một chiều khác, hàm chứa trong lời dạy của Jesus Christ, đó là sự Nhận biết.
Cá thể và Tha nhân, là chủ đề mà Jesus Christ hay nói tới, hay nói tới khi Ngài nói về Tình yêu.
“Ta bảo các ông đang nghe đây: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các ông. Như vậy, các ông sẽ là con cái Ðấng Tối cao, vì Người nhân hậu cho Mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Nếu các ông yêu những kẻ yêu các ông, thì còn ân nghĩa gì nữa?
Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các ông làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các ông, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các ông cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng. Vậy các ông hãy nên hoàn thiện, như Cha các ông trên trời là Ðấng hoàn thiện.”
Dù là kẻ trộm cắp, nghèo hèn; dù là phạm nhân, tội đồ; dù là kẻ giàu sang quyền quý; dù là nhà Khoa học; dù là nhà Văn, nhà Thơ, dù là kẻ tâm thần… tất cả đều là anh em con một Cha. Ngài luôn nói như vậy. Đó là cách ngài nói. Ngài đã nói về Tuyệt đối, một cách không tường minh;
Tuyệt đối luôn được hàm chứa. Con người chưa thể hoà thành một với vũ trụ. Con người chưa thể là một với dòng sông, với đỉnh núi, với những vì sao. Con người chưa thể là một với người khác, với kẻ thù. Nhưng tất cả hãy là anh em con một Cha. Đó là hàm ý của Ngài, đó là hàm ý của Jusus Christ.
Và có những khi, sự hàm ý này được thể hiện qua bản thân Christ.
Ngài đã luôn dạy rằng khi từ chối Tha nhân cũng là từ chối Thượng đế. Con người không thể gặp gỡ và yêu mến Thượng đế một cách mơ hồ, mà là nơi chính Tha nhân. Thượng đế và Tha nhân hòa hợp làm một trong lòng của mỗi Con người. Con người yêu Tha nhân trong Christ, và yêu Christ nơi Tha nhân. Ngài luôn hướng Con người về sự Hợp nhất toàn hảo này, ngụ ý của Cái Một, ngụ ý về cái Tuyệt đối, một Nhận biết vĩ đại.
Xin đừng bỏ lỡ những điều mà Jesus Christ đã dạy, ngài luôn nói về Tình yêu, Từ bỏ và Nhận biết, dù tường minh, dù không tường minh và thậm trí dù im lặng, không lời.
5
Trong một Dụ ngôn về Hai người con, Jesus Christ dạy rằng:
“Này, các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông ta đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa cha, con đây!” Nhưng rồi không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”
Đệ tử của Ngài trả lời: “Người thứ nhất”. Jesus Christ nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Thiên đường trước các ông!”
Jesus Christ đã trao truyền về Nhận biết. Ngài luôn hướng Con người về Hợp nhất với Tha nhân, Hợp nhất với Christ, Hợp nhất với Thiên nhiên, Hợp nhất với Thượng đế, sự Hợp nhất toàn hảo; một Nhận biết Siêu việt. Nhưng nếu Con người không thể Nhận biết về mình, về Bản thể của mình; nếu Con người không thể Nhận biết về ngay lúc này, ngay tại đây; thì con người đó làm sao có thể Hợp nhất với tất cả, cái không phải là mình.
Vâng, phải biết rằng: tôi đang tại đây và lúc này.
6
“Thượng đế là Tình yêu”
Không thể nói về Tình yêu của Jesus Christ nữa, điều đó là thừa.
Nhưng xin nói về thứ hơn cả Tình yêu.
Để chuẩn bị tiếp đón Jesus Christ tới trao truyền, Ngài, St. John the Baptist đã thực hiện phép Sám hối. Sám hối, tảy rửa các tội lỗi để cho dân Jews đựơc thanh sạch Tâm hồn, thanh sạch Cơ thể đón nhận những trao truyền từ một Thiên sứ ở một nơi xa xôi linh thiêng tới Trái đất.
Jesus Christ đã nhận phép Sám hối từ St. John the Baptist. Nhưng Ngài đã sáng tạo vượt lên, Ngài đã đẩy cao hơn một và nhiều mức. Ngài đã sáng tạo ra cái vĩ đại: Linh hồn của Sám hối và Linh hồn của Cầu nguyện. Linh hồn của Sám hối là sự Thành kính. Linh hồn của Cầu nguyện là Tình yêu và Lòng biết ơn.
Sám hối. Khi cả bản thể của người sám hối nói lên sự thống hối; khi từng thớ thịt, khi từng tế bào, khi từng Chuỗi rung lên vì hối lỗi; người đó đã ăn năn, người đó đã xám hối; thì bỗng nhiên có sự chuyển hoá. Người đó đã cảm nhận được chiều vô tận của Nội tâm; người đó được Tha thứ. Đó chính là Thiền. Người hối lỗi, người sám hối với tất cả sự thành tâm, đức tin lớn lao; người đó đã hợp nhất, hợp nhất thân thể, hợp nhất linh hồn với nhau. Người đó chuyển hoá. Đó chính là Thiền.
Người cầu nguyện với tất cả sự thành kính; thành kính trong từng giây phút, thành kính với tất cả Bản thể của mình, từng hơi thở, từng thớ thịt, từng mạch máu, từng tế bào, từng Chuỗi hoặc cái vi tế hơn cả Chuỗi; và rồi Tình yêu khơi mở, Tình yêu bùng nổ, Tình yêu thăng hoa; vậy thì không chỉ là sự Hợp nhất thân thể, Hợp nhất linh hồn với nhau; mà là sự Hợp nhất thân thể linh hồn với cả Vũ trụ, với cả Thiên nhiên, với cả Thượng đế. Đó chính là đỉnh cao của Thiền.
Tình yêu không phải là một phương tiện. Tình yêu cũng không phải là một mục tiêu. Tình yêu không vì một lý do nào cả. Tình yêu tự nó có một giá trị nội tại, Con người yêu vì Con người yêu. Thật là hạnh phúc. Không gì có thể hơn vậy nữa. Không thể tìm được gì trong đó. Và Cầu nguyện chính là Tình yêu; hãy Cầu nguyện một cách vui sướng, chẳng đòi hỏi gì, chẳng cầu mong gì.
Cầu nguyện tự nó đã quá đẹp. Con người cảm thấy ngất ngây và hạnh phúc, Con người chỉ biết cảm tạ Thượng đế đã ban cho Sự sống, đã ban cho Thiên nhiên, đã ban cho Con người biết thở, đã ban cho Con người mắt để nhìn muôn hoa, đã ban cho Con người tai để nghe vạn tiếng chim ca, đã ban cho Con người Ý thức để sáng tạo Linh hồn tìm về với Thượng đế.
Con người đến nhà nguyện với một sự biết ơn sâu sắc, với lời tạ ơn chân thành. Thượng đế tràn đầy tình yêu. Hiểu được điều đó thì một phẩm chất mới sẽ nảy sinh từ bên trong Con người: Lòng Biết ơn. Cầu nguyện thực sự chỉ là sự cám ơn, sự tạ ơn của Con người. Sự biết ơn là Cầu nguyện. Cầu nguyện là đỉnh cao của sự hạnh phúc của Con người.
Cầu nguyện vượt lên Tình yêu. Bởi vì cầu nguyện là Tình yêu đối với Thượng đế. Con người phải biết yêu, yêu bản thân mình, yêu Tha nhân, yêu Thiên nhiên,… thì Con người đó mới có thể biết yêu điều thiêng liêng nhất: Thượng đế. Tình yêu là bậc thềm bước lên Cầu nguyện. Nếu thực sự biết yêu, Con người đã học đươc điều bí mật thiêng liêng của Sự sống.
Điều bí mật thiêng liêng này áp dụng được với cái Tối thượng, Thượng đế. Nhưng nó sẽ lớn hơn, mạnh hơn, sâu sắc hơn: Cầu nguyện. Cầu nguyện là không còn cái tôi trong đó, không còn tất cả những mưu toan tính toán, không còn tất cả những giáo lý khuôn phép, không còn tất cả những giới hạn phân chia,… Không còn tất cả những cái đó, Tình yêu và Cầu nguyện tuôn trào, toả hương; Con người không còn cố kết, Con người sẽ Hoà đồng và Hợp nhất cùng Thượng đế.
-Cu si Minh Dat-