
.
Chính những ‘ham muốn’ ( dục vọng ) được thể hiện dưới nhiều cách khác nhau đã làm khởi sinh đau khổ và tạo ra sự luân hồi sinh tử. Dục vọng bị trói buộc cùng với sự vô minh, mê muội dẫn đến việc nó phải đi tìm khoái lạc từ chỗ này sang chỗ khác.
.
Dục vọng gồm 3 dạng:
.
– Dục vọng khoái lạc giác quan: là những ham muốn thuộc thú vui giác quan.
Thú vui giác quan đó xuất hiện khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tức niềm vui về sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc chạm dễ chịu và những cảm nhận khoái lạc được lưu lại trong tâm thức.
.
Nhưng vì sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm,… đều bị thời gian, vô thường làm biến đổi, nên việc ham thích, vọng cầu và tìm cách có được thú vui giác quan đó sẽ chỉ dẫn đến sự Khổ ( khổ vì không có hoặc không đủ cảm giác thỏa mãn hoặc khổ vì cảm giác thỏa mãn bị mất đi,…)
.
Cũng trong quá trình đáp ứng dục vọng đó mà con người liên tục có những hành vi tạo nghiệp thiện lẫn ác, để rồi mãi trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử dưới tác động của ý chí, nghiệp lực.
.
– Dục vọng được hiện hữu và được trở thành: là sự bám chấp vào việc sinh tồn.
.
Đó là tư tưởng về sự hiện hữu trường tồn, về một cái ‘Tôi’ trường tồn dù cho thân xác này liên tục hợp tan. Nó dẫn đến dục vọng muốn sống; muốn được hiện hữu; được tồn tại và tái sinh; được liên tục sự sống; được liên tục trở thành và tích lũy nữa và nhiều hơn nữa.
.
Dục vọng đó khiến con người phải tiến về phía trước bằng những hành động tạo nghiệp thiện hay bất thiện, để phục vụ cho sự hiện hữu của cái ‘Tôi’ ấy – một cái ‘Tôi’ tồn tại độc lập và luôn muốn mọi thứ phải xoay quanh nó, cho nó cảm giác vui sướng, khoái lạc.
.
Cũng chính những dục vọng này đã tạo ra những điều kiện, nhân duyên hay nguồn năng lực, để khởi sinh, tái sinh một sự sống mới được cấu thành bằng sự dính chấp vào Ngũ Uẩn (bao gồm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức), mang bản chất của sự Khổ, khiến con người mãi lẩn quẩn trong luân hồi.
.
– Dục vọng vì không được hiện hữu : là sự bám chấp vào việc không hiện hữu hoặc tự hủy diệt sau khi chết.
.
Đó là tư tưởng cho rằng chết là hết, không có khái niệm ‘kiếp sau’, nên con người cứ tìm mọi cách thỏa mãn những dục vọng vật chất và tinh thần ngay trong kiếp này, không kiêng cử ý nghĩ và hành động bất thiện, bất chấp quy luật nhân quả đi kèm sau đó.
.
Điều đó dẫn đến việc vì nghiệp lực từ dục vọng, mà con người tiếp tục phải luân hồi tái sinh cùng với sự dính chấp vào Ngũ Uẩn, vốn mang bản chất của sự Khổ.
.
Để chấm dứt sự khổ một cách hoàn toàn, chúng ta phải loại trừ tận gốc rễ của sự khổ, đó chính là dục vọng.Con đường để chấm dứt sự khổ được gọi là Bát Chánh Đạo, bao gồm:
.
Chánh Tri Kiến: sự thấy đúng, hiểu đúng đắn.
Chánh Tư Duy: sự suy nghĩ đúng đắn.
Chánh Ngữ: sự nói đúng, lời nói đúng đắn.
Chánh Nghiệp: hành động đúng đắn
Chánh Mạng: sự mưu sinh, việc làm, nghề nghiệp chân chính, đúng đắn.
Chánh Tinh Tấn: sự siêng năng, nỗ lực đúng đắn.
Chánh niệm: sự chú tâm đúng đắn.
Chánh Định: sự định tâm đúng đắn.
.
Bát Chánh Đạo không phải là con đường bao gồm tám bước hay tám nhánh như nhiều cách dịch trước đây, mà là con đường có tám phần. Chúng ta không nên nghĩ rằng tám phần đó của Bát Chánh Đạo phải được tu tập hay thực hành từng phần một theo thứ tự trong danh sách tám phần đó.
.
Những phần đó phải nên được thực hành và tu tập hầu như, nhiều hay ít, đồng thời với nhau tùy theo sức tu tập của mỗi người. Tất cả tám phần đó đều liên hệ, liên quan với nhau và phần này sẽ bổ trợ cho phần kia, hay nói cách khác, sự tu tập của phần này sẽ là sự bổ trợ cho sự tu tập lẫn nhau của những phần kia và ngược lại.
.
Tóm lại, Bát Chánh Đạo là một cách sống mà mỗi cá nhân nên tuân theo, thực hành và phát triển. Điều này không liên quan đến một tôn giáo hay tín ngưỡng nào cả. Nó chỉ là ‘con đường’ mà ai cũng có thể đi, để được tự do, hạnh phúc và bình an thông qua việc hoàn thiện đạo đức, tinh thần và trí tuệ.
.
Trích từ ‘What The Buddha Taught’ ( Walpola Rahula ) và ‘Buddhism Course’ (Chan Khoon San)
Bình Trần
