(Trích Minh triết Sự sống.)
Thuờng có bốn loại Huyền môn.
Loại đầu tiên là huyền môn của trí óc. Những nhà huyền môn này, họ bàn về Thần học, về Triết học, về Thiên nhiên, về Bản thể;… họ có đủ mọi loại lập luận, nhiều phương pháp phân tích, các lý luận logic về Thượng đế, về Linh hồn, về Thực tại, về Hiện hữu…
Thực sự, họ chẳng có bằng chứng nào cả, không thể có. Vì đơn giản họ đang Bất toàn, và họ đang trong một Thực tại bất toàn, làm sao họ thấy đựơc cái Toàn hảo, cái Tuyệt đối. Nhưng những Học giả này họ lại coi đó, coi những lập luận, coi những phương pháp luận của họ, tất cả đều là bằng chứng(!). Họ tự lừa mình, và họ lừa người khác.
Loại thứ hai, những nhà huyền môn của con tim. Họ nói về Tình yêu, về Tình yêu cao cả. Họ dạy cho con người phải yêu thuơng nhau. Họ luôn nói rằng, họ luôn luôn yêu thuơng mọi người, nhiều và nhiều lắm. Đó không phải cách của người đang Yêu.
Khi con người đang Yêu, đang Yêu thực sự, người đó không biết là họ đang Yêu, người đó đơn giản là thấy Hạnh phúc; hoặc người đó chỉ muốn hét lên rằng tôi đang sung sướng quá. Người đang Yêu, thực sự không thể biết là mình Yêu nhiều, và càng không thể biết là mình đang Yêu nhiều lắm.
Cho nên, nếu những nhà huyền môn con tim này, họ có nói bằng ca nhạc, bằng thi ca; họ là những người lãng mạn; sự Tìm kiếm của họ sâu hơn loại trí óc, nhưng vẫn không là đủ, không đủ sâu. Không đủ để thấy Ánh sáng.
Hai ngàn năm qua, đệ tử của Jesus Christ thuộc hai loại này, đông đúc vô kể. Họ tạo thành một hệ thống lớn lao. Họ xây thành, họ đắp luỹ; những thành luỹ giáo điều kiên cố, đã từng vùi dập loài người trong những đêm đen dài Trung cổ. Loại trí óc, phải kể đến thánh Thomas Aquinas, với bộ Summa Theological đồ sộ hàng trăm tập.
Thật là vĩ đại, với rất nhiều triết lý, với rất nhiều tri thức, với rất nhiều lý lẽ, phương pháp phân tích và cũng rất nhiều giáo lý và quy tắc. Đã không đúng với ý tứ của Jesus Christ, không đi tới các chiều sâu của ý tứ mà Ngài trao truyền. Vì những điều này mà Eckhart, thánh Francis và nhiều người khác đã từng bị coi là tà đạo là điên khùng; vì đơn giản, họ đã nói về con tim, về Tình yêu.
Con tim và trí óc luôn không đồng nhất; trong Tôn giáo thì sự không đồng nhất này, nhiều khi đẩy lên thành mâu thuẫn, mâu thuẫn đối kháng. Thành quả của cả hai nhóm này là vậy: đối kháng, xung đột.
Loại thứ ba, huyền môn pháp thuật. Trên Trái đất, có hai vùng đất đặc biệt, địa hình cao, có lịch sử văn hoá hàng chục ngàn năm; nơi có nhiều phép thuật, đó là Tibet và Peru. Lịch sử Tibet chỉ cần kể đến từ Zhangzhung, thời điểm khởi nguồn của Bon từ vài ngàn năm trước Công nguyên; tương ứng lịch sử Peru chỉ cần kể đến từ văn minh Norte Chico, trải qua các nền văn minh khác Cupisnique, Chavin, Paracas, Mochica, Nazca, Wari, Chimú,… và gần đây nhất là Inca; hai lịch sử thấm đẫm pháp thuật cùng nỗi cô đơn, khép kín và xa vời.
Pháp thuật là tinh thần của họ, là giới hạn mà con người có thể đạt tới. Các Đạo sĩ của cả Tibet và Peru đều hiểu rằng, pháp thuật là giới hạn, con người không thể không trở thành nạn nhân khi bước qua. Quá ngưỡng giới hạn này vẫn có một cái gì đó, nhưng không phải là con người nữa.
Một là, con người lao xuống, vượt quá giới hạn dưới, bị tan ra và chìm vào những Thực tại thấp hơn Thực tại người. Hai là, con người bị đẩy lên, vượt quá giới hạn trên, lạc vào những Thực tại dị biệt, vượt qua giới hạn của Sự sống. Ở đâu quá giới hạn của Sự sống ở đó không có sự Tồn tại.
Nhưng không chỉ có Tibet và Peru có nhiều pháp thuật. Pháp thuật hấp dẫn nhiều dân tộc và nhiều tôn giáo. Shinto, Thần đạo của Japan và Taoism của Chine là những nơi pháp thuật được tôn sùng. Pháp thuật có thể biến thành lửa thành nước, thành ma quỷ, gọi bão tố đến, khiến thời tiết trở nên đẹp, nước tuôn trong sa mạc, vàng lấp lánh từ cát; pháp thuật có thể là con người trẻ mãi không già; pháp thuật mang lại nhiều điều đặc biệt.
Pháp thuật sử dụng Năng lượng siêu nhiên, phục vụ con người đó, phục vụ nhóm người đó; nhưng nó bôi bẩn và xâm hại Thiên nhiên. Pháp thuật làm con người không còn là Con người nữa. Thành quyền năng. Người đó bước qua giới hạn của Sự sống.
Gautama Buddha có một lần phải đi qua một con sông lớn. Một Đạo sĩ có pháp thuật thượng thặng, chờ Ngài ở bến sông, chỉ để trổ tài, đưa Ngài qua sông. Pháp thuật cao siêu, vèo trong nháy mắt, ông ấy đã đưa được Gautama Buddha và các đệ tử, lướt trên nước, qua sông, không cần thuyền.
Cám ơn và Buddha hỏi: “Ngài đã mất bao nhiêu năm để tu luyện pháp thuật này.” Đạo sĩ mãn nguyện trả lời: “Bốn mươi năm đấy”. Rời khỏi bến sông, Buddha có chút thở dài, nói với các đệ tử: “Chúng ta qua con sông đó, bằng thuyền, chỉ mất có hai đồng tiền, ông ấy mất bốn mươi năm.”
Chỉ có trong giới hạn của Sự sống, con người mới có khả năng đi tới những điều huyền bí và linh thiêng. Pháp thuật là giới hạn. Một tầm nhìn khác, pháp thuật chỉ đơn giản là một sản phẩm phụ trong quá trình Tiến hoá; nếu dừng ở đó, con người sẽ bị giới hạn trong đó.
Các Đạo sư: Tilopa, Naropa, Marpa, Jetsun Milarepa,… những con người phi phàm biết rõ điều đó; cuộc đời của họ đã trải qua những điều như vậy. Cùng một tầm nhìn với Gautama Buddha, họ thấu hiểu rằng không có bất kỳ pháp thuật nào có thể đưa con người tới Thiên đường, tới Nirvana.
Và, loại thứ tư, huyền môn năng lượng. Tại thời điểm này, cách thời điểm Jesus Christ tới Trái đất hai ngàn năm, Thời điểm chuyển tiếp từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình, dao động của Trái đất, của Hệ mặt trời, của Nhân loại, của Tâm thức con người… đang thăng lên; các nhà huyền môn năng lượng dường như đang có cơ hội phát triển.
Thời điểm chuyển tiếp, món quà của Thượng đế, các tần số dao động đang thăng lên, thăng lên có gia tốc. Mọi thứ đang chuyển đổi. Các nhà huyền môn năng lượng tiếp nhận Năng lượng Vũ trụ, Kích hoạt DNA, Thanh lọc Cơ thể, Hợp nhất cùng Vòng xoáy năng lượng Vortex… rất nhiều các kỹ thuật.
Những kỹ thuật này, không phải bây giờ mới có. Nó có từ hàng ngàn năm; trước đây, nó ở trên núi cao; bây giờ, điều kiện thuận lợi, sẽ ít phản ứng phụ cho con người; các kỹ thuật này, tràn xuống đô thị; truyền thông và phổ biến rộng rãi. Những nhà huyền môn năng lượng khi nỗ lực tu luyện, cơ thể họ chuyển hoá, họ thấy như đang an bình nhiều hơn.
Điều đó có. Nhưng phần lớn những nhà huyền môn này, đã cho rằng Quá trình Thăng lên là tất cả. Con người chỉ cần Thăng lên. Họ lầm lẫn đồng hoá Quá trình Thăng lên là Quá trình Giác ngộ, Quá trình Nhận biết. Sự Thăng lên chỉ có thể là một phần, một vài bậc thang trong toàn bộ Quá trình Giác ngộ, Quá trình Nhận biết. Khi Thăng lên, Cơ thể chuyển hoá, họ thấy an bình hơn; ngày hôm nay an bình một chút, ngày mai an bình một chút, ngày mai nữa an bình một chút nữa… Điều đó cũng thật tuyệt.
Nhưng Tâm trí còn đó. Thế giới này, do Tâm trí tạo ra. Không thay đổi Tâm trí, không phát triển Tâm thức không thể tạo ra bước nhảy. Khổ là sản phẩm phụ của Tâm trí; an bình phúc lạc cũng là sản phẩm phụ của Tâm trí. Pháp thuật cũng là sản phẩm phụ nếu bước qua, không bước qua sẽ là trở ngại. Sự Thăng lên cũng là một cơ hội, nhưng nó không thể là tất cả. Tất cả chỉ là sản phẩm phụ của Tâm trí.
Tâm trí luôn còn đó. Thậm trí Tâm trí còn mạnh lên. Tìm cái sản phẩm phụ của Tâm trí, thứ rất ảo, maaja. Làm sao có thể tìm thấy. Dù là Phúc lạc, Người Tìm kiếm người không thể thấy Phúc lạc bằng việc đi tìm Phúc lạc; người đó không thể đi tới Thiên đường, chỉ bằng cách tiếp nhận, hấp thụ và chuyển hoá năng lượng để được Phúc lạc. Phúc lạc chỉ thể được đạt tới bằng cách tìm kiếm phúc lạc; Phúc lạc chỉ tới từ Nhận biết. Khi Nhận biết tới, Phúc lạc tới theo. Phúc lại tới cùng Nhận biết theo cách của nó.
Gautama Buddha, Lao Tzu, Mahavira,… không tạo ra, không muốn tạo ra bốn người loại này. Mỗi bậc thày một cách thức, nhưng họ không muốn tạo ra bốn loại huyền môn này.
4
Và Jesus Christ cũng vậy. Ngài không phải trí óc, Ngài không phải con tim, Ngài không đơn giản là năng lượng, là dao động, là tần số. Ngài siêu việt qua pháp thuật. Ngài siêu việt lên tất cả. Jesus Christ muốn Con người là loại Không huyền môn, loại Nhận biết. Nhận biết, siêu việt qua con tim, siêu việt qua trí óc, siêu việt qua tất cả năng lượng, dao động và tần số, siêu việt qua mọi Quá trình Thăng lên, siêu việt qua mọi thứ pháp thuật.
Jesus Christ không dạy về lý thuyết. Ngài cảm thông, Ngài chia xẻ. Và vượt lên tất cả, Jesus Christ mời gọi, mời gọi sự tiếp cận đến bản chất sâu thẳm nhất của con người, Nhận biết điều đó. Ngài muốn Con người cần vất bỏ mọi định hướng, vứt bỏ tất cả cái bên ngoài, những lớp vỏ, những tấm chăn và tìm về để Nhận biết cái cốt lõi Bên trong, nơi mà chỉ một mình người đó hiện diện, nơi bản thể của Con người ngự trị, nơi chỉ có Hiện sinh.
Jesus Christ mời gọi Con người trong Hiện sinh của Con người, trong sự trong trắng của Trẻ con. “Nếu các ông thành trẻ con, các ông sẽ tới đựơc Thiên đường”. Là trẻ con, vứt bỏ tất cả, Con người có thể đến được đó, mọi điều huyền bí sẽ mở, mọi cánh cửa sẽ mở toang và Chân lý sẽ hiển lộ.
Đó là nơi Triết học và Thần học không hề bén bảng tới; đó là nơi Thi ca không thể thơ thẩn thấp thoáng; đó là nơi cả Logic và Trái tim phải dừng bước; nơi mà tất cả các loại dao động và tần số không còn khái niệm; nơi mà mọi pháp thuật không còn quyền năng. Có vẻ là giản đơn. Chân lý bao giờ cũng đơn giản. Nhưng Con người vẫn có thể lạc đường ngay tại ngưỡng cửa của Thiên đường.
Nếu nghiêng về trí óc, Con người sẽ ngưng tại ngưỡng cửa để mà lập lý thuyết, để mà xây dựng các phương pháp luận, để mà hình thành các thứ Chủ nghĩa, để mà tạo lập nên các Giáo lý. Hoặc Con người có thể dừng tại cửa mà thơ thẩn, thơ thẩn làm thơ, thơ thẩn ca hát và nói bất tận về Tình yêu. Hoặc con người sẽ lạc vào những nguồn năng lượng với những dao động cao, với những tần số cao vút, để rồi bay mãi vơ vẩn trong những tầng năng lượng cùng những nỗ lực thăng lên. Hoặc con người rời vào những vòng xoáy pháp thuật, nơi không phải Thực tại người, nơi chả phải Thiên đường…
Đó không phải là điều Jesus Christ mong muốn.
Hãy trở thành Trẻ con, loại Không huyền môn.
– Cư Sĩ Minh Đạt-