Khai phóng tiềm năng con người theo con đường khoa học

Chúng ta phải thừa nhận một cách vinh hạnh rằng trong mỗi chúng sinh, tạo vật đều có Phật tính, Tinh thần bất tử hay Chân lý tuyệt đối. Cuộc sống và tồn tại của mỗi hữu thể là biểu cảm của “Cái đức vô hạn của trời đất là nguồn sống tùy theo duyên nghiệp, thiên định và chức phận.
.
Sự sống huyền diệu mà chúng ta đã, đang và sẽ còn được chiêm ngưỡng hay không được tri kiến đều được tỏa hương khoe sắc từ tinh thần cao rộng, ý thức sáng ngời siêu vượt qua những trạng thái nhỏ lẻ : “Cái siêu thức ấy cũng là nguồn gốc phát sinh ra những nguyên tắc đạo lý mà sự thể hiện phong phú và đa dạng đã đem lại cho đời sống nhân loại một vẻ đẹp luôn luôn làm xúc động lòng người”.
Là một con người chan chứa Phật tính trong mình nên ai cũng mong muốn bản thân và xã hội được thỏa nguyện, vui tươi và hạnh phúc. Cho nên việc giáo dục tri thức và khoa học phải “thuận theo thiên lý chính nghĩa” để khai tâm, rộng lòng những con người có nhiều hoài bão.
.
1. Tạo ra môi trường trong sáng, chân chính và đa dạng cho những tri thức khoa học được đan quyện, giao thoa cộng hưởng, cho tình yêu khoa học được nảy nở và tâm hồn lãng mạn khoa học được lai láng. Nhà văn người Pháp Jules Verne, tác giả của nhiều cuốn sách dự báo khoa học nổi tiếng, được sống trong môi trường như vậy.
Vốn có đầu óc lãng mạn khoa học và niềm say mê các phát minh khoa học, ưa thích thám hiểm thiên nhiên để tìm chất thơ của điều mới lạ, ông dành rất nhiều thời gian để đọc sách khoa học, sách thám hiểm vùng đất xa xôi ông cũng say mê trau dồi các kiến thức về toán học, vật lý, hóa học, sinh vật, địa lý… với ước vọng sáng lập ra một ngành khoa học mới (Roman scientiflque).
.
Điều kỳ diệu là, bằng tấm lòng say mê khoa học tâm hồn lãng mạn và kiến thức phong phú đượm chất nhân văn, ông đã tiên đoán được hầu hết các phát minh khoa học lớn của thế kỷ XX. Từ chuyến bay của 3 người đầu tiên lên Mặt trăng đến tàu ngầm, tàu du lịch lớn, truyền hình, vô tuyến viễn thông, vận chuyển bằng đường ống dưới đáy biển… Với chất văn truyền cảm mãnh liệt và tâm hồn roman nghệ sĩ, những tác phẩm của ông đã tạo nên lòng yêu thích khoa học và cung cấp cả những kiến thức khoa học cho biết bao thế hệ trong gần hai thế kỷ vừa qua. Nhiều nhà bác học, nhà thám hiểm, nhà thơ nổi tiếng đã thành danh bởi ảnh hưởng của Jules Verne.
.
Đất nước Ấn Độ nổi tiếng về vẻ đẹp đạo lý tâm linh và tự do tín ngưỡng có lẽ đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tư duy toán học – tin học từ trong tâm thức sâu thẳm. Nhà toán học Ấn Độ thiên tài S. Ramanujan – từ nhỏ đã được sống trong “mảnh đất công thức” với cảm giác gần gũi các con số – có khả năng thể hiện vẻ đẹp “có một không hai” rất nhiều công thức toán học, ví dụ: 1/23 + 9.(l.3/2.4)3 – 13.( l.3.5/2.4.6)3 +…= 2/Π. Khó có thể thấy một lĩnh vực các công thức toán học nào mà không có công sức của anh vun đắp, không có những công thức mới do anh tìm ra.
Một điều đặc biệt là những công thức đó được hiện lên trong giấc mơ và khi tỉnh dậy anh chỉ việc chép vào giấy. Cho tới ngày nay người ta vẫn không thế hiểu nổi làm sao anh lại có thể phát minh ra những công thức kỳ diệu đến thế, và phần đông các nhà toán học khoa học cho rằng “bằng đôi cánh của tư duy, bằng số siêu phàm, anh đã bay tới những chân trời mới của tư duy bằng công thức. Riêng anh thừa nhận rằng Thánh Namakhal đã khuyến khích anh trong những giấc mơ? Tiếc rằng anh đã mất ở tuổi còn quá trẻ (33 tuổi).
.
Hiện nay nhiều trường đại học của Ấn Độ là những “thung lũng Silicon” về công nghệ thông tin của Châu Á. Trong môi trường của tự do, những giá trị chân chính được biểu cảm thỏa mãn, phần đáng kể các nhà khoa học là nhà triết học và đa tài năng. Nhà toán học Pascal kết hợp sắc bén tư duy toán học với minh triết tâm lý mà có những cảm nhận sâu xa “Con tim có lý lẽ của nó mà trí óc không hiểu được”.
Nhà toán học, triết học nhị nguyên R.Descartes nổi tiếng với câu nói: “Tôi tư duy tức tôi tồn tại”. Nhà toán học kiêm tư tưởng gia Charles Fourier nổi tiếng với những ảnh hưởng trong cả toán học lẫn trong tư tưởng nhân loại văn minh tiến bộ. Mikhain Lomonosov là nhà hóa học, nhà bách khoa vĩ đại có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển xã hội và văn hóa Nga. Ngoài sự nổi tiếng về “Định luật bảo toàn vật chất và chuyển động”, ông còn là nhà thơ lớn, địa lý, địa chất, luyện kim và nhà sư phạm thiên tài. Đa số những tư tưởng của ông đều đi trước thời đại hàng chục, hàng trăm năm.2. Khuyến khích và kích thích sự phát triển của nội tâm, sự bay bổng của tinh thần. G.W. Leibnizt (người Đức) có người mẹ thông minh và tháo vát với quyết tâm nuôi dạy con mình trở thành nhà bác học. Không phụ lòng mẹ, ông đã học rất nhiều môn và môn nào cũng giỏi. Từ nhỏ ông mơ ước xây dựng một “ngôn ngữ” chung cho mọi khoa học và ước mơ táo bạo đó đã đưa Leibnizt sống vượt thời đại của mình hai thế kỷ.

Với tinh thần nhiệt tình tự học, lòng say mê phát minh với những hoài bão lớn lao, Leibnizt có nhiều công trình nổi tiếng và không chỉ là nhà toán học lớn, ông còn là một nhà luật học, triết gia, nhà văn và sử học được các nhà bác học ở Paris thời bấy giờ hết sức khâm phục.

Bậc chí thánh Khổng Tử được suối nguồn văn hóa Nghiêu Thuấn và Chu Công chân truyền mà nội tâm “tín nhi hiếu cổ” phát triển rực rỡ, trau dồi tri thức không ngừng, hành đạo thi ân rộng khắp mà được hậu thế tôn làm “vạn thế sư biểu”.

Mạnh Tử được bà mẹ dẫn dắt qua nhiều môi trường sống và cuối cùng quyết định ở cạnh trường học, nơi Tử Tư, cháu của Khổng Tử dạy học. Nhờ sống với nguồn “tu dưỡng Đạo lý được gọi là giáo dục” được thánh thót bên tai tràn vào nội giới mà “tấm lòng hạo nhiên và học thuyết tính thiện” của ông đã như những viên ngọc minh châu lấp lánh cho tới tận ngày nay.

3. Phát triển khả năng minh triết và tâm hồn phong phú của khoa học. Nhà toán học và triết gia đa tài người Hy Lạp Pythagore có những phát minh và tri kiến ảnh hưởng rộng rãi đến đời sống nhân loại. Nhờ có nội tâm phong phú cởi mở đan hòa với nhiều lĩnh vực như toán học, triết học, đạo đức học, thần học, âm nhạc… mà Pythagore cảm thấy được sức mạnh của thần khí con số. “Số là cái sức chúa tể chủ động để duy trì cái sức mạnh trong vũ trụ được trường tồn.

Nếu không có số, không có cái sức mạnh của số thì không ai có thể quan niệm được phân minh về bản thân cùng mối quan hệ của sự vật… Cái sức mạnh của số không những xuất hiện ra trong những sự vật của quỷ thần mà thôi, mà lại biểu lộ ra trong tất cả các sự nghiệp cùng tất cả các tư tưởng của người ta nghĩa là đâu đâu cũng có, cho đến các công trình về mỹ thuật, về âm nhạc cũng vậy.

Aristotle sau bao kinh nghiệm từng trải trên con đường tìm tòi Chân lý đã đưa ra quan điểm khoa học mục đích luận: “Thiên nhiên không bao giờ làm gì thừa và luôn thực hiện mọi việc theo một mục đích xác định”. Từ chỗ không tin vào linh hồn hiện hữu, ông tin rằng mọi việc do Đấng tối cao an bài, điều khiển.

Trong bản thảo bàn về linh hồn, ông cho rằng: “Mọi hiểu biết đều bắt nguồn từ cảm giác” và theo ông, linh hồn có ba phần: linh hồn thực vật tính (thuộc về bản năng), linh hồn động vật tính (hệ vận động) và linh hồn duy lý hay trí tuệ (chỉ có ở con người). Rõ ràng, kinh nghiệm trải đời của Aristotle đã lóe sáng lên trong tâm hồn ông những tri kiến minh triết sâu xa.

Rõ ràng, “nền tảng của nhận thức khoa học không phải luôn luôn vững chắc. Chúng liên tục bị dời đổi và nhiều lần đã hoàn toàn bị đảo lộn. Bất cứ lúc nào mà một cuộc cách mạng quan trọng xẩy ra người ta đều cảm thấy nền tảng khoa học bị lay chuyển. Như Descartes viết trong tác phẩm nổi tiếng Thảo luận về phương pháp (Discourse ơn Method) trong thời đại của ông: “Tôi nhận thấy rằng chẳng có lì là chắc chắn để có thể xây dựng trên đó với nền tảng cứ bị thay đổi luôn thế này” …

Einstein đã viết những dòng sau đây về phát triển của vật lý lượng tử: “Hầu như nền tảng đã bị lật ngược từ gốc không còn thấy được nền tảng chắc chắn nào cả mà trên đó ta có thể xây dựng được” (“Đạo của vật lý, trang 398). Lý thuyết tương đối của Einstein đã cho thấy rằng mọi sự kiện trên thế gian này chỉ có tính tương đối, không gian và thời gian liên kết chặt chẽ với nhau và có thể chuyển hóa cho nhau biến đổi do tác động của vật chất, khối lượng chỉ là một dạng năng lượng ở trạng thái tĩnh tại. Cho nên những cảm nhận tưởng chừng thực chất của chúng ta cũng chỉ là tương đối đến mức “thoảng gió bay” và con người văn minh vẫn mệt nhoài trên con đường “có thực mới vực được Đạo” đạo người, đạo đời và đạo lý tự nhiên!

Trong khoa học tâm lý phương Đông truyền thống người ta biết cách Biến dịch những cảm xúc duy lý, thực dụng, giàu màu sắc đơn lẻ thành những vũ khúc nhịp nhàng, chân “thực để vực đạo” lý nhân tâm. Bởi thế, những nhà khoa học tâm lý Đông phương đồng thời là nghệ sĩ hiền triết … tạo nên vẻ đẹp “đẹp là đẹp trong sự hài hòa”. Cho nên, nếu những kiến thức trí tuệ, những tư duy khoa học trở thành đạo đức, những hiểu biết giàu bản sắc nhân văn và thống nhất giữa tri (thức) và Hành (động) được thêu dệt cẩn thận thì lo gì, tiềm năng con người không được nở rộ như hoa đào mùa xuân, ngát hương như hương sen mùa hạ, thanh tao như cúc vàng mùa thu và tươi tắn như bông hồng long lanh giữa sương đông lạnh giá.

4. Phát triển và gìn giữ môi trường thiên nhiên như vốn có để làm suối nguồn cho những vũ điệu thiên nhiên và khúc hát thắm tình được hứng khởi. Đối tượng phát minh và sáng chế của con người phần lớn vẫn dựa vào bản sắc thiên nhiên lộng lẫy, phi thường. Và chúng ta chỉ mới biết phần nào bề nổi của thiên nhiên (hiện ra bằng trực quan),còn phần lớn nền tảng của những điệu nhảy đó vẫn còn chìm trong bóng tối và bỡn đùa giễu cợt chúng ta.

Chỉ có sống chan hòa rộng rãi, thậm chí khiêm nhường cầu thị để mong “trời thương đất dưỡng” mới có nhiều cơ hội trực giác sáng tỏ cuộc sống. Hãy khởi tình yêu thiên nhiên, hãy coi thiên nhiên cũng “biết ăn, ‘biết ngủ, biết học hành” như ta. Khi đó, cuộc sống của chúng ta sẽ vững như bàn thạch, tâm hồn đẹp như những viên kim cương màu trắng hay ngọc minh châu lấp lánh.

5. Nhận thức chính mình. Chúng ta là những tiểu vũ trụ nhưng cũng như là đại vũ trụ. Mỗi hữu thể từ tiểu cho đến đại đều là một biểu tượng tâm sinh lý và có nhu cầu làm duyên. Thiên nhiên không xa nhưng cũng chẳng gần, vạn vật phần lớn nằm ngoài phạm vi cảm giác của ta cho nên không dễ gì hiểu hết được. Còn bản thân mình đi theo tâm tình như hình với bóng, lúc nào cũng thường trực song hành nhưng chúng ta đã hiểu hết bản thân mình chưa.

Chúng ta là những sinh linh bơi lội đầm minh và chung tình đồng ý nhất trí với đại dương vũ trụ – tức là những tham dự viên – chứ không phải là những khán giả đi xem biểu diễn. Cho nên phải cảm nhận được “Ta với vũ trụ là một thể đồng nhất”, nếu không thì thảm họa tức khắc khôn lường cho bản thân. Thực tế chứng minh rằng khoa học theo hướng “riêng rẽ, cá thể” mặc dù đã phát triển ở trình độ rất cao nhưng vẫn chưa lý giải nổi bản chất nội thể con người, tính chất toàn đồ phức tạp của nhân thể khiến cho hạnh phúc nhân loại vẫn như “bên kia bờ ảo vọng” trước sự tấn công của bệnh tật, khủng hoảng tâm lý và cái nhịp khúc muôn thuở “sinh hẹn tử kỳ”.

Không những thế, trong khi khoa học đang tìm nơi cư trú khác cho con người, cải tạo vũ trụ thì đồng thời cũng góp phần đáng kể vào việc biến Hành tinh Xanh thành nơi không thế sống được trong tương lai không xa. ” Dao sắc không bằng chắc kê” cho nên khoa học nên hướng vào việc giữ gìn chỗ đứng, nền tảng hiện nay cho an toàn, chắc chắn đã. Trong đó việc làm an hòa bản thân mỗi người là nhiệm vụ cấp bách.

6. Nhận thức đúng ý nghĩa của khoa học, điều này phải trở thành hệ thống những giá trị tinh thần, những tri thức phù hợp với quy luật tự nhiên thổn thức tâm tình rộng rãi và những sợi dây mẫn cảm trong cuộc sống. Khoa học phải trở thành Đạo học tiệm cận tới “Đạo đức là sự vĩ đại của Trời Đất, là nguồn sống bất tuyệt của Tạo hóa”. Khi đỏ, khoa học xứng đáng là người lái đò chân chính đưa nhân loại tới bến bờ Chân lý.

Cần xem xét cẩn trọng và hiểu đúng một số nhân sinh quan và thế giới quan. Khoa học chân chính là khoa học “tự thân” không mang màu sắc vị lợi mưu danh. Khoa học là phương tiện hướng con người tới những tầm cao của cuộc sống, là công trình nghệ thuật san sẻ mọi đối xung thành một dòng chảy hiền hòa. Khoa học và tri thức góp phần biến những hành vi “hoang dại” trái nghịch với nguồn sống phổ biến thành những xung động mênh mang, đẹp đẽ.

7. Hãy tôn trọng những điều chưa biết, những tinh hoa đang ẩn chứa trong nội tâm và ngoại cảnh, hãy khởi tam hồn cầu thị để hoàn thiện bản thân và hiểu biết rộng rãi. Cuộc sống luôn có những điều bí ẩn, nhưng bất luận hình thức nào đó là chỉ sự giao kết giữa tinh thần với vật chất và đạt tới trạng thái hài hòa mà “Vật chất chỉ là những luân xa của năng lượng (hay tinh thần)” (Krishnamurti).

Cũng như con người, Trái đất, các thiên thể cho đến cả vũ trụ đều là những thực thể sống cho nên đều có những huyệt hội, kinh mạch và luân xa. Đời sống tâm sinh lý cũng chuyển dời, thăng giáng theo vũ điệu của thần Shiva hay Kinh dịch. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh rộng lớn hơn, ta sẽ cảm thông với những thơn thức của đất trời, “Đừng kêu trời, trời còn khổ hơn ta? Bởi trên trời còn có bao trời khác” (Oma Khayam) và biết cách thấu hiểu (Nguyễn Bỉnh Khiêm) luôn rộng lòng cởi mở vui tươi chào đón tâm tình chúng ta.

Bản thân mỗi người luôn luôn phải đối diện với những điều chưa biết, những vấn đề bí ẩn ngay trong nội tâm bản thân cuộc sống có ý nghĩa bởi bồng hoa hé mở dần dần cho nên cần phải yêu quý cái đã biết và tôn trọng cả những gì chưa biết. Để có nhãn quan ngày càng sinh động, hiểu biết ngày thêm tươi tắn, cần phải điều tâm mãnh liệt đến mức “quên mình” mà “thoát xác” ra khỏi tấm thân nhỏ bé của mình để “ru với gió mơ theo trăng”, tức là sống vui vẻ hòa đồng với đối tượng ngay cả trong giấc ngủ.

Khi có sự “tận kỳ tâm tri kỳ tính” thì tự nhiên trong không gian thiên nhiên và tâm lý trong trẻo, sơ vắng, hồng hoang sẽ lóe lên những bông hoa ngàn cánh tường minh, rực rỡ, giúp chúng ta “giác ngộ” về vấn đề quan tâm. A.Einstein nói: Cảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự huyền bí. Chính cảm xúc này khiến cho khoa học chân chính nảy nở. Những ai không còn những cảm xúc đó không còn biết sự ngạc nhiên mà chỉ biết ngẩn người ra vì sợ hãi thì sống cũng như chết.

Cảm thấy điều huyền bí mà con người chưa giải thích nổi là vì khả năng ít ỏi đáng buồn của chúng ta mới chỉ làm biểu lộ được một phần nhỏ bé và thấp kém của cái quy luật cao siêu và lộng lẫy của tự nhiên. Chính sự hiểu biết đó và cảm xúc đó là nền tảng đích thực của Tôn giáo.

8. Phát triển khả năng trực giác bằng sự cởi mở nội tâm: Ta biết rằng thế giới lộng lẫy muôn màu bởi “duyên long ra ngoài”, bởi sự cởi mở nội tâm để cho con người cầu thị “tận kỳ tâm tri kỳ tính” để nhận được sự giao duyên giữa nội thể (siêu hình bản năng vi mô) với ngoại giới (cụ thể vĩ mô). Chỉ khi tâm linh được chan hòa và cộng hưởng mãnh liệt với đối tượng thì những xúc cảm hay khả năng trực giác mới được bừng sáng.

Thực tiễn đã chứng minh phần lớn các phát minh, nhất là các phát minh vĩ đại, đều được tuôn chảy từ cảm hứng trực giác. Đạo học phương Đông có sức lôi cuốn mãnh liệt hơn hẳn triết học và khoa học Tây phương bởi sức mạnh minh triết tức khả năng trực giác sao cho “phóng tâm tồn khí”’. Văn hóa tinh thần được trường sinh bất lão bởi nó là tiếng nói của con tim, của lương tri và hòa cảm với xa xôi rộng lớn,trong khi đó văn minh bị thay mốt thời trang bởi tính nhất thời, tính hình thức của nó.

Cho nên việc phát triển khả năng trực giác đồng thời với phát triển trực quan ngày càng tinh tế, đan hòa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay nhằm phát huy sức mạnh trực cảm, khai phóng tiềm năng nội giới để đạt được sự thống nhất giữa lý và tình, giữa tâm và vật, chủ quan với khách quan …

Phát triển trực giác bằng cách nào? Bằng lối sống chân thành uyển chuyển và phong cách giáo dục hòa hợp, thân thiện với thiên nhiên, khơi dậy tấm lòng trắc ẩn và cầu thị của mọi người, từ đó nâng cao khả năng minh triết và tâm hồn hướng thượng. Có như thế chúng ta mới trực cảm thấy điều huyền diệu nhất: “Ta với vũ trụ là một thể thống nhất không tách rời”, khi đó “Làm việc là phụng sự Trời”.

9. Kết hợp sinh khí của tuổi trẻ với tinh hoa trải nghiệm của các bậc lão làng. Khoa học là những bài ca rộn màu thanh xuân, biểu cảm khát vọng đang thời tươi trẻ. Nhưng cuộc sống diễn dịch theo vũ điệu thăng giáng của các màn đồng diễn năng lượng cho nên sự “thăng” của năng lực này vô tình làm “giáng” năng lượng đối mà gây ra những cảnh “sa cơ, lỡ bước”.

Tài năng hay khát vọng chỉ là những dòng “khí lực phóng xạ” được “phóng” ra từ tâm tình tuổi trẻ và “ánh xạ” vào đối tượng để tạo nhân duyên cộng hưởng. Tuổi trẻ có giữ mãi “thường thường được chăng”? cái tâm linh và thành quả của mình để thách đố với 64 điệu Kinh dịch.
Cho nên sự bồng bột và nhiệt tình của tuổi trẻ cần phải được kinh nghiệm của tuổi già điều hòa để trở nên chan hòa hơn trong cuộc sống, biến mình thành thực chất chứ không mang tính tô vẽ màu mè.

10. Khoa học phải biên thành những tác phẩm nghệ thuật. Khoa học chuyên môn chỉ là những mảnh con con của nhu cầu tâm sinh lý nhằm phục vụ nhu cầu đời thường và thỏa mãn cá nhân. Như thế khoa học cũng mang tính chất tâm lý, biểu cảm khát vọng hướng thượng của nhân sinh. Nhưng cuộc sống là cây đàn muôn điệu hay bản giao hưởng trữ tình mà trong đó mỗi thổn thức là một nốt nhạc hay khúc hát thấu tình.

Cho nên khoa học phải biến hóa mình thành những cung đàn mùa xuân tiết tấu êm đềm. Muốn vậy những rung động tạo nên khoa học phải được khơi dòng từ suối nguồn tình cảm chan hòa, trong sáng, biểu cảm sức sống chân chính, mạnh mẽ hướng tới những khát vọng rộng dài. Một khi người thợ thủ công tự trau dồi mình thành nghệ nhân thì tác phẩm cũng hóa thành công trình nghệ thuật.

Rõ ràng thiên nhiên phong phú và văn hóa tinh thần là những suối nguồn mẫn điệu và những công trình khoa học nhất mà tính nghệ thuật đạt đến mức siêu đẳng. Cho nên dù bất cứ thiên tài hay nhân ái nào, mơ mộng đi đâu, sau những chu kỳ thỏa mãn khát vọng của tuổi trẻ lại nhiệt thành với cảm hứng tinh thần, say nồng trong văn hóa yêu thương.

Bởi vậy chỉ có không ngừng khơi lên nguồn cảm hứng không khí thanh bình, những dòng sữa của quê hương đất nước mới tạo nên những sức mạnh khoa học, chân chính, tích cực. Đồng thời, lối sống mẫu mực là tấm gương sáng cho những con đường ngay thẳng, khách quan và chân thực.

Nguồn:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *