Sự tỉnh thức này giống như sự tỉnh thức từ một giấc mơ buổi tối – đó cũng là lý do người ta hay dùng ẩn dụ đó trong bao thế kỷ qua. Giấc mơ giống như thật khi đang mơ. Nếu bạn cảm giác sự sống của bạn bị đe dọa giống y như thật trong giấc mơ, bạn sẽ cảm giác bấn loạn, giống như là sự bấn loạn trong đời sống thực tại nếu bạn bị đe dọa.
Nhưng khi bạn tỉnh dậy vào buổi sáng, bạn sẽ nghĩ: “Lạy Chúa, nó không phải sự thật.” Nhưng trong giấc mơ thì nó rất thật. Nó chỉ tồn tại khi giấc mơ tồn tại, nó không có ý nghĩa thật như chúng ta đã nghĩ khi chúng ta đang mơ.
Con người không biết sự quan trọng như thế nào khi thức dậy ra khỏi giấc mơ giữa đêm. Bạn thật sự thức dậy khỏi chiều kích mà bạn đã lầm tưởng là thật như chiều kích hiện tại. Nó là một sự thay đổi chấn động của tâm thức. Tất cả mọi thứ tôi nghĩ là đúng trong giấc mơ cuối cùng lại không đúng.
Khi có một sự tỉnh thức tâm linh thật sự, sự chấn động hoàn toàn giống nhau. Tôi không có nói thế giới này là một giấc mơ hay là không – nó không có ý nghĩa gì khi định nghĩa về thế giới này. Nhưng tôi nói là sự trải nghiệm của sự tỉnh thức nó giống y như vậy.
Nó là một sự trải nghiệm giống như là: “Trời ơi, tôi đã lầm tưởng chính tôi là một con người có tên như vầy, như vầy nhưng tôi không phải. Và nó không phải cái gì tôi cảm thấy lớn hơn hay tốt hơn hay mở rộng hơn hay thánh thiện hơn, tâm linh hơn. Nó có nghĩa là tôi không phải. Chấm dứt“.
Nó không có nghĩa là không có thân xác. Hiển nhiên là vẫn có thân xác. Nó cũng không có nghĩa là không có tâm trí. Hiển nhiên là vẫn có tâm trí. Nó không có nghĩa là không có tính cách riêng. Hiển nhiên là có tính cách riêng. Và nó cũng cảm nhận được cái tôi.
Giác ngộ hay không, bạn sẽ vẫn cảm nhận được cái tôi hiện diện. Nếu như không, tâm thức không thể hoạt động trong thân xác này. Nếu như không, người khác gọi tên bạn, bạn sẽ không trả lời được. Như tôi được biết, tất cả những bậc giác ngộ từ đó đến giờ đều có thể trả lời bằng cách này hoặc cách khác.
Tôi cam đoan với bạn, bạn vẫn cảm nhận được cái tôi sau khi giác ngộ. Thân xác của bạn không thể hoạt động nếu như không cảm nhận được cái tôi. Cho nên nó là một điều giả tưởng khi nói rằng sau khi giác ngộ, bạn sẽ mất hết cảm nhận về cái tôi.
Có thể khi ngồi thiền bạn tạm thời quên mất sự cảm nhận cái tôi của bạn, nên ai đó gọi tên bạn, bạn không có quay đầu lại. Tôi đã từng thấy có người ngồi thiền đến nổi không thể đứng dậy được. Ở Ấn Độ họ gọi là nirvikalpa samadhi. Nó là một trải nghiệm đẹp. Nhiều điều sáng tỏ có thể đến từ đó. Cũng có thể không có gì xảy ra.
Bạn có thể có một sự trải nghiệm ngưng tạm thời sự trải nghiệm cảm nhận của cái tôi, nhưng tôi bảo đảm là nó chỉ tạm thời, bởi vì thân xác của bạn không thể hoạt động nếu như không có một sự cảm nhận về cái tôi.
Hầu hết trong cuộc sống con người, tất cả đều tránh né chân lý. Chân lý mà chúng ta tránh né là Chân Lý của sự trống rỗng. Chúng ta không muốn thấy là chúng ta không là gì cả. Chúng ta không muốn thấy là tất cả những gì chúng ta tin tưởng đều sai. Chúng ta không muốn thấy là tất cả những gì người khác tin tưởng đều sai. Chúng ta không muốn thấy tất cả những gì chúng ta nghĩ về Thượng Đế đều không phải Thượng Đế. Chúng ta không muốn thấy cái ý nghĩa mà Buddha truyền đạt khi Ngài nói: không có cái tôi.
Chúng ta nhanh chóng khỏa lắp bằng những lời tuyên bố tích cực.
Đáng lẽ cần phải thấy là không có cái tôi và tất cả những cái gì tâm trí nghĩ là đúng thật sự là trống rỗng, tâm trí của chúng ta sẽ nhanh chóng điền vào những câu như: “Tôi là sự tỉnh thức” hay “Tất cả là hỷ lạc” hay “Thượng Đế là tình yêu“. Chúng ta không muốn thấy là có một sự trống rỗng ngay chính trung tâm của sự sống của chúng ta.
Xuyên qua nhiều thế kỷ, khi con đường tâm linh được nói đến gần với Chân Lý, thì người ta lại nhanh chóng che đậy nó lại. Ngay cả trong Zen – một trong những hình thái thanh khiết không chạy đuổi theo những sự trải nghiệm giác ngộ – vẫn có một sự tránh né về sự giảng dạy nền tảng trọng tâm, là không có cái tôi. Chính vì vậy khi bạn giở bất cứ tạp chí nào, dù là tạp chí Phật học, bạn vẫn không thấy sự giảng dạy trọng tâm này. Nó không có.
Hầu hết những bài viết đều nói bạn hãy trở nên bác ái và yêu thương, làm sao để thiền được tốt hơn, đếm hơi thở, niệm chú, hay tưởng tượng về điều thanh cao, v.v…Ngay cả trong Phật giáo, luôn luôn được che đậy, mặc dù khó thể nào che đậy giáo lý căn bản của người sáng lập: không có cái tôi.
Mặc dù nó không bị che giấu, nhưng rất ít được nhắc đến, và nếu như có, thường là nó được tô vẽ lên. Những sự giảng dạy thật sự về sự giác ngộ sẽ giống như một lưỡi kiếm chém xuyên qua bất cứ hướng nào mà bạn đang đi đến. Nó cắt ngang đôi chân bạn, và bạn nằm sóng soài dưới sàn nhà, chảy máu.
Từ lâu đã được nói rằng Chân Lý sẽ giải phóng bạn, và cái điều thiện lành nhất chúng ta có thể làm cho bất cứ ai, bao gồm cả chính chúng ta, là nói lên sự thật. Chúng ta không thể giải phóng được khi chỉ nói với nhau những điều chúng ta thích nghe.
Đó không phải là sự thiện lành mà là tồi tệ vì nó đưa chúng ta vào một vòng xoáy nô lệ không ngừng nghỉ chạy đuổi theo những thứ không thật sự tồn tại. Chân Lý có thể làm tâm trí chúng ta bất lực, nhưng đó chính là mục đích! Sự đầu hàng có nghĩa là như vậy. Sư đầu hàng không có nghĩa là: “Tôi tìm đến điều thiêng liêng, buông bỏ hết tất cả, buông bỏ cuộc sống, trái tim của tôi, tất cả để đạt được sự lợi ích tâm linh tột cùng”.
Nhiều người đi quỳ lạy trăm ngàn bước chung quanh dãy Himalayas chỉ vì họ nghĩ làm như vậy họ sẽ đạt được điều gì đó tốt đẹp. Ôi! Tôi sẽ không làm điều đó. Nó là một sự hành xác đau đớn!
Sự đầu hàng cũng là có ý nghĩa cúi xuống thấp giống như vậy, bên trong lẫn bên ngoài, nhưng làm không có tìm cầu một điều gì. Còn những cái khác chỉ là trò chơi. Là cái tôi. “Tôi giả bộ làm ra vẻ tâm linh bởi vì nó sẽ cho tôi một cái gì đó”. Tâm linh đúng nghĩa nhất là: “Tôi chỉ muốn Chân Lý. Tôi sẵn sàng từ bỏ hết tất cả những gì không phải Chân Lý.
Nó không mang ý nghĩa là tôi thích hay không thích từ bỏ. Và nó không phải là tôi muốn Chân Lý như là một cái gì tôi đạt được để nắm giữ và sở hữu. Nó chỉ là tôi muốn Chân Lý, mà bản chất tự nhiên của nó phải là một sự không chiếm hữu”. Phải tuyệt đối buông bỏ, tuyệt đối từ bỏ, nhưng không phải để đạt được một cái gì ngược lại. Sự buông bỏ tột cùng là buông bỏ luôn cả người buông bỏ. Không có cái gì trong sự giác ngộ cho tôi cả.
Trong một ý nghĩa khác, sự giác ngộ là nhận biết được không có một cái tôi riêng biệt. Chúng ta có thể nghe một trăm ngàn lần: “Không có một cái tôi riêng biệt”. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta thật sự xem xét nó một cách nghiêm túc, nó có nghĩa là gì? Chúng ta sẽ thấy rằng tất cả những gì mà cái tôi riêng biệt này nghĩ là đúng thật sự là không đúng.
Khi nếm được hương vị của sự không có cái tôi riêng biệt là một sự giải phóng hoàn toàn. “Không có cái tôi riêng biệt” không có nghĩa là một sự trải nghiệm tâm linh giống như: “Cái tôi của tôi được trải rộng vô cùng tận và tôi hoà nhập vào hết tất cả mọi thứ”.
Đó là một sự trải nghiệm đẹp và tuyệt vời cho cái tôi, nhưng không phải ý nghĩa MỘT là như vậy. MỘT không phải là hòa nhập. Hòa nhập chỉ xảy ra giữa hai cái, và khi mà chỉ có một, vậy thì bất cứ sự trải nghiệm nào của sự hòa nhập thật sự là một sự ảo giác của một cái này hoà nhập với cái kia, mặc dù nó rất đẹp và tuyệt vời. Ngay cả khi tôi có sự trải nghiệm hòa nhập với cái tuyệt đối, với Thượng Đế, nó chỉ đơn giản có nghĩa là cái tôi giả tưởng này hòa nhập với một cái giả tưởng khác. Những trải nghiệm huyền bí không phải là sự giác ngộ.
MỘT là khi không có cái khác.
MỘT là chỉ có cái này duy nhất.
Không có cái kia ở đằng kia, chỉ có cái này. Và tất cả chỉ có như vậy. Chỉ có cái này, và nếu bạn định nghĩa cái này nghĩa là gì, thì bạn đã đồng thời định nghĩa cái mà nó không phải là. Cái này chỉ được nhận biết khi tất cả những cái khác được phá vỡ một cách tột cùng. Và khi đó sự tỉnh thức đó là một sự tỉnh thức ngoài tất cả những cái gì đến và đi. Nó là một sự tỉnh thức nằm ngoài thời gian.